Chính Sách Ưu Đãi Fdi Tại Việt Nam

Chính Sách Ưu Đãi Fdi Tại Việt Nam

Để tận dụng tốt hơn dòng vốn FDI cho phát triển kinh tế, tạo ra sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước, tác động lan tỏa tích cực hơn và nâng cao giá trị gia tăng cho khu vực kinh tế trong nước, Việt Nam cần hoạch định chính sách ưu đãi thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh mới.

Miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Căn cứ Điều 20 Thông tư 78/2014 của Bộ Tài chính được sửa đổi tại Thông tư 96/2015:

Miễn thuế 04 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi thuế suất 10% trong 15 năm nêu tại mục 1.1 bài viết này.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực xã hội hóa thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Miễn thuế 04 năm, giảm 50% thuế phải nộp trong 05 năm tiếp theo

Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực xã hội hóa thực hiện tại địa bàn không thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Miễn thuế 02 năm và giảm 50% thuế trong 04 năm tiếp theo

– Thu nhập từ thực hiện dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi thuế suất 17% trong 10 năm nêu tại mục 1.1 nêu trên.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại Khu công nghiệp (trừ Khu công nghiệp ở nội thành của đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đô thị loại I trực thuộc tỉnh).

Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất.

Đặc điểm của doanh nghiệp FDI

Nếu như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… đều có những điểm đặc trưng của từng loại hình, thì mô hình đầu tư doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng có những điểm riêng biệt, cụ thể:

Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Từ ngày 01/01/2016, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, trừ một số trường hợp chịu mức thuế cao hơn hoặc được hưởng ưu đãi về thuế.

Cụ thể, Điều 19 Thông tư số 78/2014/TT-BTC được sửa đổi tại Thông tư số 96/2015/TT-BTC quy định thuế suất ưu đãi như sau:

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao (gồm cả khu công nghệ thông tin tập trung);

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong các lĩnh vực:

+ Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;

+ Ứng dụng công nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển (theo Luật Công nghệ cao);

+ Ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao;

+ Đầu tư mạo hiểm để phát triển công nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển;

+ Đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng hàng không, cảng biển, cảng sông; sân bay, nhà ga và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng quyết định;

+ Sản xuất vật liệu composit, vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm;

+ Sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải;

+ Phát triển công nghệ sinh học.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: Sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải;

– Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất (trừ sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khai thác khoáng sản) đáp ứng 01 trong 02 tiêu chí:

+ Có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6000 tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 03 năm từ khi được phép đầu tư lần đầu và có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10.000 tỷ đồng/năm chậm nhất sau 03 năm kể từ năm có doanh thu.

+ Dự án có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6000 tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 03 năm kể từ khi được phép đầu tư lần đầu và sử dụng thường xuyên trên 3.000 lao động chậm nhất sau 03 năm kể từ năm có doanh thu.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất (ngoại trừ sản xuất hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khai thác khoáng sản), có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12.000 tỷ đồng, sử dụng công nghệ phải được thẩm định theo quy định của Luật Công nghệ cao, Luật Khoa học và Công nghệ, giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 05 năm từ ngày được phép đầu tư.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển thỏa mãn một trong các tiêu chí:

+ Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao;

+ Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất sản phẩm các ngành: Dệt – may; da – giầy; điện tử – tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà tính đến ngày 01/01/2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng phải đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của EU hoặc tương đương.

Có thể bạn quan tâm: Căn Cứ Tính Thuế Suất Thuế Nhập Khẩu 2024

– Phần thu nhập của doanh nghiệp từ hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường, giám định tư pháp.

– Phần thu nhập của hoạt động xuất bản của Nhà xuất bản.

– Phần thu nhập từ hoạt động báo in (bao gồm cả quảng cáo trên báo in) của cơ quan báo chí.

– Phần thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ: trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối, đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm.

– Phần thu nhập của hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp không thuộc địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản ở địa bàn không thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.

– Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới: sản xuất thép cao cấp; sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; sản xuất thiết bị tưới tiêu, sản xuất, tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản; phát triển ngành nghề truyền thống (gồm cả xây dựng, phát triển các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản thực phẩm, các sản phẩm văn hóa).

Áp dụng đối với Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng hợp tác xã và Tổ chức tài chính vi mô.

(Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng hợp tác xã và Tổ chức tài chính vi mô thành lập mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn sau khi hết thời hạn áp dụng thuế suất 10% thì được áp dụng thuế suất 17%)

Vai trò của doanh nghiệp FDI

Sự tồn tại của các doanh nghiệp FDI có vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế chung của cả nước, chẳng hạn một số lợi ích từ doanh nghiệp FDI như:

Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

Được áp dụng mức thuế suất thấp hơn mức thuế suất thuế thu nhập thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn thuế, giảm thuế, các ưu đãi khác theo quy định.

Tìm hiểu thêm: Khi Nào Được Hoàn Thuế Nhập Khẩu

Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất

Theo Điều 5 Nghị định số 57/2018, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp (đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư) được Nhà nước giao đất hoặc được chuyển mục đích đất để làm nhà ở cho người lao động theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai:

Được miễn tiền chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất được chuyển mục đích để xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại dự án. Sau đó, được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đã chuyển đổi.

Miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Theo Điều 10 Thông tư 153/2011/TT-BTC, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với:

– Đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư (đặc biệt ưu đãi đầu tư); dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội (KT-XH) đặc biệt khó khăn; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư (ưu đãi đầu tư) tại địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn; đất của doanh nghiệp sử dụng trên 50% số lao động là thương binh, bệnh binh.

– Đất của cơ sở thực hiện xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường.

Điều 11 Thông tư này cũng quy định giảm 50% số thuế sử dụng đất đối với:

– Đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; đất của doanh nghiệp sử dụng từ 20% – 50% lao động là thương binh, bệnh binh.

Trên đây Phần mềm hóa đơn điện tử EasyInvoice đã cung cấp thông tin về “Chính Sách Ưu Đãi Thuế Cho Doanh Nghiệp FDI“. Hy vọng những thông tin trên hữu ích với quý bạn đọc. Nếu còn câu hỏi khác cần được tư vấn, hỗ trợ vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 0981 772 388 – 1900 33 69 đội ngũ của chúng tôi sẽ giải đáp nhanh chóng và chi tiết nhất.

Theo quy định tại Điều 89 Luật Quản lý thuế ngày 13 tháng 6 năm 2019, Điều 11 Nghị định 123/2020/NĐ-CP, Điều 1 Nghị định số 41/2022/NĐ-CP và Điều 8 Thông tư số 78/2021/TT-BTC, quy định việc sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có mã của cơ quan thuế

SoftDreams ra mắt Phần mềm quản lý bán hàng EasyPos hỗ trợ Quý khách hàng trong nghiệp vụ sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Nếu Quý khách hàng cần được tư vấn và hỗ trợ thêm, hãy liên hệ ngay cho đội ngũ chuyên nghiệp của SoftDreams, chúng tôi cam kết hỗ trợ khách hàng kịp thời 24/7 trong suốt quá trình sử dụng phần mềm.

EASYPOS – Phần mềm Quản lý bán hàng đáp ứng đầy đủ nghiệp vụ như:

ĐĂNG KÝ DÙNG THỬ PHẦN MỀM QUẢN LÝ BÁN HÀNG EASYPOS NGAY

Để được tư vấn và hỗ trợ trực tiếp vui lòng liên hệ

Điện thoại: 0981 772 388 – 1900 33 69

Website: https://easyinvoice.vn/

Facebook: https://www.facebook.com/easyinvoice.vn

Kính gửi: Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội

Trả lời công văn số 1044/UBKT14 ngày 22/06/2018 của Uỷ ban kinh tế của Quốc hội về chính sách và thực trạng ưu đãi đầu tư tại Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến như sau:

Ngay từ khi mới bắt đầu Đổi mới, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã có những quy định ban đầu về ưu đãi đầu tư, tập trung chủ yếu vào biện pháp giảm thuế lợi tức. Luật Đầu tư nước ngoài 1996 cũng có các biện pháp ưu đãi đầu tư gồm cả thuế nhập khẩu và thuế lợi tức. Đối với các nhà đầu tư trong nước, phải đến năm 1994 mới có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, sau được thay thế bằng Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.

Nhìn chung, giai đoạn trước khi có Luật Đầu tư 2005, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đối tượng được ưu đãi đầu tư là các dự án được xác định theo 2 tiêu chí chủ yếu: (1) lĩnh vực đầu tư, và (2) địa bàn đầu tư. Một số lĩnh vực được ưu đãi đầu tư chủ yếu như công nghiệp nặng, hạ tầng, lâm nghiệp. Ngoài hai tiêu chi trên, một số tiêu chí khác cũng được áp dụng như doanh nghiệp có định hướng xuất khẩu, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (hoặc nhiều lao động nữ), sử dụng công nghệ tiên tiến, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá có tỷ lệ nội địa hoá cao…

Về hình thức ưu đãi, các biện pháp chủ yếu được áp dụng là miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong toàn thời gian hoặc một thời gian nhất định. Ngoài ra, các biện pháp ưu đãi thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị đầu tư tài sản cố định, miễn giảm tiền thuê đất.

Về thẩm quyền, ở cấp Trung ương, thẩm quyền quyết định các chính sách ưu đãi đầu tư thuộc về Chính phủ. Tuy nhiên, do có sự phân cấp về địa phương nên xuất hiện hiện tượng tranh nhau “xé rào” trong ưu đãi đầu tư, tạo nên cuộc đua xuống đáy giữa các địa phương, gây ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác.

Sau khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, nhằm tương thích với các quy định của WTO, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã có sự thống nhất, không còn phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Nhiều tiêu chí để xác định đối tượng được ưu đãi thuế cũng được điều chỉnh, bãi bỏ như không còn ưu đãi thuế đối với hàng xuất khẩu (trợ cấp xuất khẩu) hoặc với hàng hoá có tỷ lệ nội địa hoá cao. Đối tượng ưu đãi thuế dựa trên 2 tiêu chí chính: ưu đãi theo địa bàn (khó khăn và đặc biệt khó khăn) và theo lĩnh vực.

Về hình thức ưu đãi, ngoài các hình thức ưu đãi quen thuộc như thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuế xuất nhập khẩu, bắt đầu xuất hiện them nhiều hình thức ưu đãi khác như: ưu đãi thuế thu nhập cá nhân cho người lao động, hỗ trợ chi phí thủ tục hành chính, chi phí đầu tư hạ tầng, hỗ trợ lãi suất, trợ giá, bao tiêu sản phẩm đối với một số ngành rất khó thu hút đầu tư như năng lượng sạch, hoá dầu…

Về thẩm quyền, sau Luật Đầu tư 2005 không còn tình trạng các địa phương ưu đãi đầu tư tràn lan bằng biện pháp thuế. Tuy nhiên, các địa phương vẫn có thẩm quyền ban hành chính sách ưu đãi đầu tư (cụ thể hoá chính sách của trung ương), và thường sẽ áp dụng các biện pháp như hỗ trợ chi phí, hạ tầng, thủ tục hành chính,… Ở cấp trung ương, các chính sách ưu đãi chủ yếu được quyết định ở cấp Nghị định và Quyết định của Thủ tướng và được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp luật về thuế và ngân sách. Tuy nhiên, các quy định về ưu đãi đầu tư nằm rải rác trong pháp luật về đầu tư, pháp luật về thuế và trong pháp luật nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác. Hiện nay đang có xu hướng hạn chế ban hành chính sách ưu đãi về thuế ở các văn bản pháp luật ngoài lĩnh vực thuế.

Các nội dung chính sách cụ thể được thể hiện trong Phụ lục của Công văn này.

Các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) trong thu hút đầu tư của Việt Nam là rất hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Nhờ có chính sách thuế ưu đãi hấp dẫn cùng với giá công nhân và năng lượng thấp, Việt Nam trong thời gian qua đã thu hút được lượng lớn FDI. Đến tháng 6/2018, tổng vốn đăng ký đạt 331,2 tỷ USD và vốn giải ngân lũy kế khoảng 180,7 tỷ USD. Khu vực FDI đóng góp to lớn vào GDP, kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và góp phần vào nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, thúc đẩy hội nhập kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách đổi mới hành chính, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Các dự án FDI có giá trị cao vào Việt Nam có thể kể đến: Samsung (20 tỷ USD vào nhà máy sản xuất điện thoại, xuất khẩu trên 50 tỷ USD/năm; sử dụng 130.000 lao động); Intel (1 tỷ USD vào nhà máy lắp rắp và thử nghiệm chip siêu nhỏ, sử dụng 3.000 lao động); LG (4 tỷ), GE, Mitsubishi, Sanofi, Panasonic…

Tuy nhiên, vẫn tồn tại những bất cập trong thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam như: tỉ lệ dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ nguồn, chưa có sự bứt phá trong xu thế thu hút sử dụng FDI (các dự án chỉ mới tập trung khai thác tài nguyên, thị trường, lắp rắp, gia công sử dụng nhiều lao động, tiêu tốn năng lượng); tác động lan tỏa từ khu vực FDI đến doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, công tác quản lý nhà nước còn bất cập (chuyển giá, lao động)

Các nội dung thực trạng cụ thể được thể hiện trong Phụ lục của Công văn này.

VCCI đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về ưu đãi đàu tư trong thời gian tới như sau:

Đối với các doanh nghiệp đầu tư trong một ngành, lĩnh vực thì các quy định quản lý ngành sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hơn là các quy định về ưu đãi. Do đó, để thu hút đầu tư vào một ngành, lĩnh vực thì trước tiên cần tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua việc dỡ bỏ rào cản gia nhập ngành, minh bạch hoá thông tin chính sách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cải thiện cơ sở hạ tầng trước khi phải sử dụng đến biện pháp ưu đãi đầu tư. Ví dụ: khi Nhà nước muốn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu và phát triển (R&D) thì cần có kế hoạch, chiến lược để bảo hộ sáng chế, đảm bảo thực thi các quy định quyền sở hữu trí tuệ trước khi tính đến việc ưu đãi đầu tư.

Khi xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư thì cần phải đánh giá cả tác động tích cực và tiêu cực, chú trọng sử dụng phương pháp định lượng. Trong thời gian qua, có tình trạng các cơ quan đề xuất chính sách ưu đãi chỉ tập trung vào việc trình bày những tác động tích cực của chính sách như giúp phát triển kinh tế địa phương, hoặc tăng vốn đầu tư vào một ngành nghề cụ thể. Tuy nhiên, các tác động tiêu cực về ngân sách, về giảm đầu tư ở nơi khác hoặc tác động tiêu cực về môi trường, cạnh tranh thì thường không được đề cập trong quá trình xây dựng chính sách. Do đó, cần tiến tới đặt ra nguyên tắc rằng nếu đề xuất chính sách ưu đãi đầu tư nào mà không thể hiện đầy đủ và rõ nét các tác động tiêu cực thì phải được hạn chế trong quá trình thẩm định, thẩm tra và thông qua.

Thời gian qua có tình trạng một số chính sách ưu đãi được ban hành nhưng không có quy định hoặc quy định không minh bạch về điều kiện và thủ tục để được hưởng ưu đãi. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn vướng mắc trong việc xin xác nhận đối tượng được hưởng ưu đãi. Thậm chí, có trường hợp chính sách trao quyền tuỳ nghi quá lớn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, tạo cơ hội cho tham nhũng tiêu cực, doanh nghiệp phải chung chi để được xác nhận đủ điều kiện được ưu đãi. Kết quả là chính sách ưu đãi không phát huy được tác dụng, làm nản lòng những doanh nghiệp muốn đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến khích. Do đó, các chính sách ưu đãi cần hết sức chú ý đến việc bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng về điều kiện, tiêu chí, thủ tục để được hưởng ưu đãi.

Việc ưu đãi có thể được coi là biện pháp “mồi”, nhằm tạo lập, thu hút nhà đầu tư trong một giai đoạn nhất định. Sau một thời gian, nếu lĩnh vực, địa bàn đó đã có làn sóng đầu tư tốt, thì cần giảm bớt chính sách ưu đãi; nếu lĩnh vực, địa bàn đó không có nhiều nhà đầu tư thì tức là biện pháp ưu đãi không hiệu quả, cần được nâng cấp hoặc điều chỉnh cho phù hợp hơn. Chính vì thế nên đưa ra một nguyên tắc rằng các quy định về ưu đãi đầu tư chỉ có hiệu lực trong tối đa 5 năm kể từ khi ban hành (tức là chỉ áp dụng cho những dự án được cấp phép đầu tư hoặc bắt đầu nộp hồ sơ xin cấp phép đầu tư trong thời hạn đó). Sau 5 năm, biện pháp ưu đãi đầu tư phải được gia hạn, hoặc nếu không sẽ tự động hết hiệu lực, không áp dụng cho các dự án mới nữa. Lưu ý, biện pháp ưu đãi có thể kéo dài hơn thời gian đó (ví dụ như miễn thuế 4 năm, giảm thuế trong 9 năm).

Hiện nay có tình trạng tách biệt giữa xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư với việc xây dựng kế hoạch ngân sách. Nhiều chính sách ưu đãi đầu tư dàn trải, lãng phí, gây xói mòn cơ sở thu ngân sách, dẫn đến việc Nhà nước buộc phải tăng thu từ những nguồn khác, gây phản ứng trong xã hội. Có thể tính đến giải pháp đưa những nội dung chung, mang tính nguyên tắc, về tổng chi/giảm thu cho ưu đãi đầu tư vào trong dự toán ngân sách. Các chính sách ưu đãi cụ thể không được phép vượt quá nguyên tắc và tổng chi/giảm thu đó.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về chính sách, thực trạng và một số kiến nghị giải pháp đối với ưu đãi đầu tư tại Việt Nam. Kính mong Quý Cơ quan xem xét, cân nhắc.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

Khi nghiên cứu ban hành, triển khai chính sách ưu đãi thuế cũng phải có chọn lọc, đảm bảo minh bạch, đơn giản, phù hợp với nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, cần có các giải pháp đồng bộ khác để xây dựng một môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, đảm bảo sự tiếp cận thuận lợi, bình đẳng của các nhà đầu tư đối với các cơ hội kinh doanh cũng như với lợi ích do chính sách ưu đãi thuế mang lại.

Tổng quan về chính sách ưu đãi thuế

Chính sách ưu đãi thuế được áp dụng khá phổ biến trên thế giới. Ưu đãi thuế được hiểu là việc áp dụng các chính sách thuế có “sự khác biệt” so với các quy định chung của pháp luật thuế nhằm tạo ra sự đối xử ưu đãi hơn cho một nhóm đối tượng người nộp thuế cụ thể. Để một chính sách thuế được xem là một biện pháp “ưu đãi thuế”, chính sách thuế đó phải chứa đựng 3 yếu tố: (i) Sự khác biệt so với các quy định về thuế được áp dụng chung; (ii) Sự khác biệt tạo ra những ưu đãi nhất định cho người nộp thuế và (iii) Để được hưởng lợi, đối tượng nộp thuế phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định (ví dụ, thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn, chứng từ...).

Ưu đãi thuế có nhiều hình thức khác nhau và có thể phân loại theo nhiều cách thức khác nhau như: Dựa theo loại hình ưu đãi; Dựa theo các yếu tố đầu vào (dựa vào chi phí) và đầu ra (dựa vào lợi nhuận); Dựa theo ưu đãi về thuế trực thu và thuế gián thu. Khi phân loại theo loại hình ưu đãi, các biện pháp ưu đãi thuế chủ yếu bao gồm: Ưu đãi về giảm thuế suất; Miễn, giảm thuế thu nhập có thời hạn; Giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư hoặc giảm trừ nghĩa vụ thuế phải nộp theo đầu tư; Ưu đãi về miễn, giảm thuế gián thu (ví dụ, miễn, giảm thuế nhập khẩu); Cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế một tỷ lệ cao hơn số thực chi; Hoàn thuế đối với lợi nhuận tái đầu tư hay áp dụng cơ chế khấu hao nhanh.

Ưu đãi thuế được các nước áp dụng để hướng đến nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm: Thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên, qua đó, tạo ra các động lực cho tăng trưởng kinh tế; khuyến khích triển vùng; khuyến khích tạo việc làm; Thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng hàm lượng nội địa của sản phẩm sản xuất trong nước; Phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN); Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hay để thúc đẩy bảo vệ môi trường, sản xuất và tiêu dùng xanh.

Ưu điểm, nhược điểm của các hình thức ưu đãi thuế trong việc hướng đến các mục tiêu đề ra là rất khác nhau. Ưu đãi về thuế suất và về miễn, giảm thuế có thời hạn có ưu điểm là đơn giản, dễ quản lý. Tuy nhiên, hạn chế của các biện pháp ưu đãi này là chi phí ngân sách cao và số thu ngân sách giảm trong nhiều trường hợp là không dự tính được và độc lập với lợi ích mà dự án đầu tư có thể mang lại (IMF, 2015; OECD, 2018). Khi áp dụng các biện pháp ưu đãi này, quy mô ưu đãi các nhà đầu tư được hưởng (thể hiện bằng số tiền thuế được miễn, giảm) phụ thuộc vào mức độ lợi nhuận mà dự án đầu tư mang lại (dự án đầu tư có tỷ lệ lãi càng cao, nhà đầu tư càng được hưởng lợi từ chính sách miễn, giảm thuế), song lợi nhuận của các dự án đầu tư lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và chính phủ cũng thường không có đủ thông tin để đánh giá khả năng sinh lợi của dự án đầu tư ngay từ đầu. Nhà đầu tư cũng có thể chấm dứt dự án đầu tư khi hết thời hạn ưu đãi và thành lập dự án mới để được hưởng kỳ ưu đãi về miễn, giảm thuế mới.

Biện pháp hoàn thuế đối với lợi nhuận tái đầu tư có ưu điểm là dễ quản lý nhưng lại gây ra sự bị động của chính phủ trong cân đối tìm nguồn để hoàn lại. So với các biện pháp ưu đãi khác, các hình thức ưu đãi thuế gắn với quy mô vốn đầu tư như giảm trừ nghĩa vụ thuế theo đầu tư, giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với quy mô vốn doanh nghiệp (DN) thực tế đầu tư. Mức độ ưu đãi tỷ lệ thuận với số vốn mà DN thực tế đầu tư. Vì thế, chính phủ dự tính được ngay từ đầu số giảm thu ngân sách do áp dụng ưu đãi, qua đó, có sự nhìn nhận đầy đủ hơn về chi phí của việc thực hiện. Tuy nhiên, áp dụng các hình thức ưu đãi này có nhược điểm là nhà đầu tư sẽ có xu hướng lựa chọn tài sản có vòng đời ngắn để tiếp tục hưởng ưu đãi khi thay thế tài sản.

Hiệu quả của chính sách ưu đãi trong việc hướng đến các mục tiêu đề ra phụ thuộc vào nhiều nhân tố, bao gồm cả các nhân tố bên trong và những nhân tố bên ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm: bối cảnh kinh tế, chính trị trong nước; đặc điểm chung của hệ thống thuế; cách thức hệ thống chính sách ưu đãi được thiết kế; môi trường kinh doanh hay năng lực thi, quản lý của cơ quan thuế. Trong khi đó, môi trường kinh tế quốc tế, mức độ hội nhập của nền kinh tế trong nước, vai trò của các hiệp định thuế, hợp tác quốc tế về thuế là những nhân tố bên ngoài cần được quan tâm đến khi xây dựng chính sách ưu đãi thuế.

Lý luận cũng như thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, trong nhiều trường hợp, sử dụng chính sách ưu đãi thuế làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút thêm nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn từ bên ngoài. Qua đó, tạo thêm việc làm, thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo ra “hiệu ứng lan tỏa” khác cho nền kinh tế. Tuy nhiên, áp dụng chính sách này cũng gây ra những chi phí cho chính phủ, bao gồm: làm giảm nguồn thu ngân sách; tăng chi phí quản lý hành chính thuế; gây ra sự méo mó quá trình phân bổ nguồn lực trong xã hội và tạo ra các cơ hội cho tham nhũng nếu không quản lý hiệu quả. Chi phí ngân sách không những chỉ là phần ngân sách bị giảm trực tiếp mà còn cả số giảm thu ngân sách từ xói mòn cơ sở thuế từ việc khai thác các “khoảng trống” của chính sách thuế (ví dụ sử dụng các thủ thuật để chuyển lợi nhuận từ DN không được hưởng ưu đãi đến DN được hưởng ưu đãi).

Bên cạnh đó, áp dụng ưu đãi thuế có thể dẫn tới cạnh tranh thuế quốc tế. Một quốc gia áp dụng chính sách ưu đãi thuế có thể kéo theo quốc gia khác áp dụng chính sách tương tự để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư. Khi xảy ra cạnh tranh thuế, mức độ hấp dẫn trong khuyến khích đầu tư ở các quốc gia không thay đổi nhưng các quốc gia tham gia cạnh tranh thuế đều bị giảm thu ngân sách do sự xói mòn về cơ sở thuế. Ngoài ra, khi không được thiết kế phù hợp, áp dụng ưu đãi thuế có thể dẫn đến sự “dư thừa” chính sách không cần thiết, gây lãng phí nguồn lực ngân sách. Có những trường hợp nhà đầu tư vẫn đưa ra quyết định đầu tư mà không cần phải có chính sách ưu đãi thuế (James, 2014).

Chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Ưu đãi thuế là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách thuế của Việt Nam kể từ khi thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế đến nay. Các hình thức ưu đãi thuế ở Việt Nam khá đa dạng, bao gồm ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế TNDN, ưu đãi về giảm thuế thu nhập cá nhân (TNCN), về miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay các hình thức ưu đãi qua áp dụng cơ chế khấu hao nhanh hay cơ chế trích lập Quỹ Khoa học và công nghệ tại DN...

Cùng với các biện pháp kinh tế khác, việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thời gian qua đã góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy DN mở rộng sản xuất. Việt Nam đã trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc áp dụng ưu đãi thuế đã có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, đó là: (i) Thu hút thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế, góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, lĩnh vực, cơ cấu vùng miền; (iii) Gia tăng xuất khẩu và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang công nghiệp chế biến, chế tạo; (v) Tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế; (v) Thúc đẩy chuyển giao công nghệ.

Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam thời gian qua cũng chỉ ra một số vấn đề cần phải sớm được nhận diện, nhất là khi xem xét một cách đầy đủ hiệu quả của các chính sách này trong mối tương quan với các chi phí gián tiếp và trực tiếp mà việc áp dụng ưu đãi gây ra. So với nhiều quốc gia trong khu vực, mức độ ưu đãi trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam là tương đối cao.

Cùng với đó, danh mục ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế cũng khá rộng. Thực tiễn này vô hình trung đã làm giảm vai trò “định hướng” của chính sách ưu đãi thuế trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, hiện nay, tất cả các khu kinh tế (KKT) đều áp dụng chung một cơ chế ưu đãi như nhau mà không gắn với đặc điểm và mức độ phát triển về điều kiện kinh tế - xã hội, hạ tầng trong từng KKT.

Phạm vi ưu đãi rộng đồng nghĩa với việc chi phí của việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cao, nhất là đối với nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN). Chỉ tính riêng năm 2016, theo số liệu được công bố, tổng số tiền mà NSNN đã ưu đãi cho các DN là trên 64.278 tỷ đồng, tương đương khoảng 5,84% tổng thu NSNN năm 2016, trong đó ưu đãi về thuế chiếm 81,8% (Như Bình & Đức Sơn (2017). Trong tổng số giảm thu NSNN do ưu đãi thuế, số giảm thu do ưu đãi thuế TNDN chiếm tỷ trọng lớn nhất (89%), tiếp đến là ưu đãi về thuế nhập khẩu (8,9%).

Thời gian qua, Việt Nam thực hiện nhiều chính sách ưu đãi thuế với mục tiêu để thúc đẩy phát triển một số ngành, lĩnh vực và địa bàn ưu tiên tuy nhiên có thể thấy hiệu quả mang lại không đạt như kỳ vọng. Các địa bàn, khu vực có trình độ phát triển thấp vẫn gặp nhiều khó khăn trong thu hút đầu tư do những hạn chế về vị trí địa lý cũng như kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực.

Tỷ trọng thu hút đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên (ví dụ như lĩnh vực nông nghiệp, phát triển khoa học và công nghệ), vẫn còn thấp. Các doanh nghiệp FDI đã mang lại những lợi ích lớn cho Việt Nam trong đóng góp cho tăng trưởng, xuất khẩu và tạo việc làm nhưng mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI với nền kinh tế Việt Nam, tạo ra sự lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước cũng còn những điểm hạn chế.

Hệ thống chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam chủ yếu dựa vào các loại hình ưu đãi dựa trên lợi nhuận như ưu đãi về giảm mức thuế suất, áp dụng thời gian miễn thuế, giảm thuế TNDN. Đây là các loại hình ưu đãi được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng kém hiệu quả nhất và có chi phí cao nhất. Các hình thức ưu đãi thuế khác như giảm trừ số thuế phải nộp, giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư hiện vẫn chưa được áp dụng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, mặc dù theo quy định, trong hệ thống chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam hiện nay không có sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp nhưng trên thực tế trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp FDI được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách ưu đãi thuế, trong khi đó mức độ tiếp cận của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Trong tổng số số thu NSNN giảm do thực hiện ưu đãi thuế TNDN năm 2016, số giảm thu NSNN từ thực hiện ưu đãi thuế TNDN cho các doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 75,5%.

So với nhiều quốc gia trong khu vực, mức độ ưu đãi trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam là tương đối cao. Cùng với đó, danh mục ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế khá rộng. Việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thời gian qua đã góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất.

Việc bãi bỏ các biện pháp ưu đãi về thuế quy định trong các luật chuyên ngành để quy định vào trong các luật thuế là bước đi đúng nhưng khi chuyển tập trung vào các luật thuế cơ bản lại là một phép cộng mà thiếu đi sự đánh giá để sàng lọc loại bỏ các biện pháp ưu đãi thuế không hiệu quả, thậm chí trong một số trường hợp còn bị mở rộng hơn do áp dụng nguyên tắc cho phép áp dụng các quy định ưu đãi có lợi nhất, ưu đãi cao nhất cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, yêu cầu rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi, không lồng ghép chính sách xã hội vào chính sách thuế tuy được đặt ra khá sớm nhưng hiệu quả thực hiện chưa cao.

Định hướng hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam

Việt Nam cần nghiên cứu toàn diện, có những điều chỉnh cần thiết để chính sách ưu đãi thuế tiếp tục phát huy hiệu quả. Yêu cầu rà soát, sửa đổi chính sách ưu đãi thuế gần đây cũng được đặt ra trong các văn kiện Nghị quyết của Đảng, Quốc hội như Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững và Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 10/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016 - 2020. Để đảm bảo hiệu quả, việc xây dựng và áp dụng chính sách ưu đãi thuế phải có chọn lọc, có trọng điểm, minh bạch và đơn giản dựa trên theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần quan tâm đến một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, thực hiện rà soát, đánh giá tổng thể các chính sách ưu đãi thuế để có các điều chỉnh, sửa đổi phù hợp. Cụ thể, nghiên cứu giảm dần sự phụ thuộc quá lớn vào việc áp dụng hình thức ưu đãi về miễn, giảm thuế TNDN có thời hạn để chuyển sang áp dụng hình thức ưu đãi thuế khác, hiệu quả hơn, ví dụ, cơ chế ưu đãi qua giảm trừ nghĩa vụ thuế phải nộp hay giảm trừ thu nhập chịu thuế theo đầu tư. Mức giảm trừ có thể là cho toàn bộ hay một phần so với số vốn nhà đầu tư bỏ ra, tùy theo mức độ ưu tiên của dự án đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam có thể nghiên cứu áp dụng phương thức giảm trừ bổ sung, qua đó cho phép tính vào chi phí được trừ ở mức cao hơn số mà các DN đã thực chi trong một số hoạt động mà nhà nước cần khuyến khích. Ví dụ: Đối với các khoản chi cho hoạt động khoa học và công nghệ hay cho ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin.

Đồng thời, thực hiện rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi về thuế gián thu. Cụ thể, thực hiện đánh giá toàn diện xác quy định về miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016. Trên cơ sở đó, có lộ trình để thu hẹp danh mục các nhóm hàng hóa được miễn thuế, đảm bảo sự minh bạch về điều kiện để được hưởng ưu đãi.

Thứ hai, rà soát để thu hẹp danh mục ngành, nghề và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế, đảm bảo chính sách ưu đãi thuế được thực hiện có chọn lọc, gắn với các chủ trương, định hướng của Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Việc lựa chọn các ngành, nghề cần ưu đãi phải được cân nhắc trên cơ sở phân tích về lợi ích - chi phí một cách cẩn trọng. Chính sách ưu đãi thuế phải hướng vào các ngành, nghề có khả năng tạo ra các “ngoại ứng tích cực cho nền kinh tế”, tạo điều kiện cho các DN Việt Nam đổi mới, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tập trung vào các ngành, nghề mà Việt Nam có thể phát huy lợi thế so sánh, có dư địa để phát triển.

Cùng với đó, cần nghiên cứu lộ trình phù hợp, từng bước giảm dần ưu đãi đầu tư dựa theo địa bàn để chuyển sang ưu đãi dựa theo ngành, nghề. Đối với các khu kinh tế (KKT), cần xem xét đến tính chất, đặc điểm và mục tiêu riêng của từng KKT để có những chính sách ưu đãi riêng, không áp dụng chung cùng một mặt bằng chính sách ưu đãi thuế. Đồng thời, quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chí để thành lập các KKT, khu công nghiệp và khu chế xuất để hạn chế sự dàn trải trong áp dụng chính sách ưu đãi thuế. Về nguyên tắc, ưu đãi dựa theo địa bàn nên chỉ áp dụng đối một số khu vực nhất định (ví dụ như các các vùng có lợi thế phát triển) để tạo động lực lan tỏa cho tăng trưởng.

Cùng với việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, cần phải có các giải pháp đồng bộ khác ở tầm vĩ mô và vi mô để đảm bảo xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, minh bạch và đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng, bình đẳng với chi phí hợp lý của nhà đầu tư đối với các cơ hội kinh doanh cũng như trong việc thụ hưởng lợi ích do chính sách ưu đãi thuế mang lại.

Thứ ba, hoàn thiện khuôn khổ đánh giá hiệu quả của ưu đãi thuế, xây dựng Báo cáo chi tiêu thuế; Thực hiện phân tích chi phí - lợi ích của các chính sách ưu đãi thuế một cách thận trọng và mang tính dài hạn trước khi ban hành và trong quá trình thực hiện, bao gồm cả các ảnh hưởng về khía cạnh xã hội. Để thực hiện được yêu cầu này, cần thiết lập cơ chế báo cáo để cơ quan thuế có cơ sở thu thập thông tin và dữ liệu liên quan đến việc thực hiện các chính sách ưu đãi thuế, bao gồm các thông tin liên quan đến số dự án được hưởng ưu đãi thuế, số giảm thu NSNN do ưu đãi thuế, đóng góp của dự án được hưởng ưu đãi đối với nền kinh tế trên các khía cạnh như tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, kết quả chuyển giao công nghệ. DN được hưởng ưu đãi phải kê khai thuế đầy đủ, kể cả trong trường hợp không phát sinh nghĩa vụ thuế phải nộp (do được hưởng ưu đãi).

Thứ tư, tiếp tục thực hiện tổng thể việc cải cách hệ thống thuế, xây dựng một hệ thống thuế “thân thiện với tăng trưởng” gắn với các mục tiêu, định hướng xác định trong Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội. Việc cải cách trong từng chính sách thuế cần được thực hiện theo nguyên tắc duy trì một hệ thống chính sách thuế có tính cạnh tranh, mức thuế suất hợp lý, cơ sở tính thuế rộng, đảm bảo tính hiệu quả và công bằng; Kiên định thực hiện định hướng tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế để đảm bảo tính trung lập, tính đơn giản của hệ thống chính sách thuế.

Đồng thời, đổi mới toàn diện hoạt động quản lý thuế, hướng đến quản lý thuế điện tử dựa trên 3 nền tảng cơ bản: (i) Tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; (ii) Đẩy mạnh quản lý dựa trên rủi ro trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các khâu của quy trình quản lý thuế và xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về người thuế đầy đủ, toàn diện không chỉ liên quan đến các thông tin do ngành Thuế quản lý mà còn cả các thông tin khác có liên quan từ bên thứ ba; (iii) Xây dựng bộ máy quản lý thuế gọn nhẹ, hiệu quả và hiệu lực. Cùng với đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thuế, hình thành các cơ chế để chia sẻ thông tin về người nộp thuế, về các hiệp định thuế và chính sách thuế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để tăng cường hiệu quả việc xử lý các vấn đề về thuế phát sinh, bao gồm cả những vấn đề liên quan đến chính sách ưu đãi thuế.

Thứ năm, đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Cùng với việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, cần có các giải pháp đồng bộ khác ở tầm vĩ mô và vi mô để đảm bảo xây dựng cho được một môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, minh bạch và đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng, bình đẳng với chi phí hợp lý của các nhà đầu tư đối với các cơ hội kinh doanh cũng như trong việc thụ hưởng các lợi ích do chính sách ưu đãi thuế mang lại giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.