Thầy Thích Chân Quang 1988 Là Ai Quê Quán Ở Đâu

Thầy Thích Chân Quang 1988 Là Ai Quê Quán Ở Đâu

Thiền sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, là bậc cao tăng nổi tiếng thời hiện đại, của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng là một nhà Đại Hoằng Pháp, là một dịch giả và tác giả về Phật học có danh tiếng, là người có công lao nhiều nhất, trong việc phục hưng Dòng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, mà ngày nay chúng ta đã thấy rõ sự phát triển và những công năng trong dòng Thiền đó. Tên tục của Đại Lão – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, là Trần Hữu Phước, sinh vào ngày hai tư tháng bảy năm 1924, tại quê hương, Ấp Tích Khánh, Xã Thiện Mỹ, Huyện Trà Ôn, Tỉnh Cần Thơ xưa, nay thuộc Tỉnh Vĩnh Long. Cả cuộc đời Hòa Thượng đã cống hiến hết mình cho Đạo Phật, Thầy đã chu du trên toàn Thế Giới, để truyền bá những kiến thức vi diệu trong Phật Pháp. Hiện tại Hòa Thượng tuổi đã khá cao, nên sức khỏe có phần rất yếu. Với bài tổng hợp này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng, mời quý vị và các bạn cùng tìm hiểu về, tiểu sử bản thân, cuộc đời sự nghiệp và những thành tựu của Đại Lão – Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ nhé.!

Giới thiệu về Tu Viện Trúc Lâm nơi trụ trì của Thầy Thích Pháp Hòa.

Tu Viện Trúc Lâm là cơ sở đầu tiên của Viện Phật Học Canada, tọa lạc tại thành phố Edmonton Canada từ tháng 6 năm 1989.

Khi mới được xây dựng, Tu viện Trúc Lâm tọa lạc ở địa chỉ số 10604, 108 Street, là một tòa công trình với 3 tầng và 9 phòng. Tại đây đã diễn ra rất nhiều hoạt động sinh hoạt Phật Sự, như tu học, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng và giáo dục Phật Học.

Tới năm 1992, cơ sở này đã được bán lại để chuyển đến một địa chỉ khác là một nhà thờ cũ rộng rãi hơn tại số 10155, 89 Street, thành phố Edmonton Canada.

Năm 1996, Viện Phật Học đã quyết định xây mới Tu Viện tại một khu đất rộng hơn ở khu trung tâm thành phố Edmonton. Đó chính là Tu Viện hiện tại, nơi mà Thầy Thích Pháp Hòa hiện đang làm trụ trì, tọa lạc tại số 113288-97 Street thành phố Edmonton. Từ khi được xây dựng Tu Viện Trúc Lâm cho tới nay, nơi đây đã trở thành một địa chỉ Tôn Giáo Tín Ngưỡng quen thuộc và gần gũi với rất nhiều kiều bào Việt Nam xa xứ.

Những thành tựu nổi bật đã đạt được, của Hòa Thượng Thích Thanh Từ.

Đại Lão Thiền Sư Hòa Thượng Thích Thanh Từ, đã từng làm rất nhiều chức vụ quan trọng, trong Giáo Hội Phật Giáo, từ năm 1960 đến năm 1964, cụ thể như những chức vụ: Phó Vụ Trưởng Phật học vụ, Giáo Sư kiêm Quản Viện Phật học Huệ Nghiêm, Vụ trưởng Phật học vụ, Giảng Sư Viện Đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Từ Nghiêm, Dược Sư…

Sau lễ hoàn khóa, Cao Trung chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã xin phép Tổ Thiện Hoa được về ẩn tu trên núi. Khi này Thầy đã thật sự giã từ phấn bảng, giã từ Phật học viện, vì tứ chúng Thầy đã miệt mài cùng năm tháng, thế nhưng “Tăng Ni” hai tiếng vẫn xoáy sâu vào lòng Thầy, để sau này “Thầy Trò” lại gặp nhau, chút duyên ấy thêm càng son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, vào tháng tư năm 1966, đã dựng Pháp Lạc Thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi Thất lá, bốn thước đơn sơ vuông vức, với bộ Ðại Tạng Kinh, thế nhưng, một Thiền tăng nghèo đã ấp ủ, quyết nhận lại cho kỳ được, một hạt châu vô giá của chính bản thân mình.

Quá trình Tu học Phật Pháp của Hòa thượng Thích Thanh Từ.

Trong hai năm 1949 và 1950, Hòa thượng Thích Thanh Từ, đã đến Phật học đường Phật Quang, tại Chùa Phật Quang, để theo học lớp Sơ đẳng năm thứ 3. Đến năm 1951, Thầy bắt đầu học lên lớp Trung đẳng. Cũng trong năm 1951, đã xảy ra binh biến tại Chùa Phật Quang, Sư Tổ Thiện Hoa đã phải sơ tán tất cả các Tăng chúng đến Chùa Phước Hậu, Thầy Thích Thanh Từ cũng đi cùng tất cả các chúng Tăng trong đợt đó, và chính tại Chùa Phước Hậu, Thầy Thích Thanh Từ đã được thụ giới Sa Di, do đàn đầu là Hòa Thượng Tổ Khánh Anh.

Tới năm 1953, Thầy Thích Thanh Từ, theo Bản Sư là Tổ Thiện Hoa đến Sài Gòn, để tiếp tục theo học lớp Trung đẳng, ở Phật học đường Nam Việt tại Chùa Ấn Quang. Tại đây, Thầy tiếp tục được thụ giới Cụ Túc, do đàn đầu là Hòa Thượng Tổ Huệ Quang. Thầy Thích Thanh Từ, đã theo học Cao đẳng Phật học, từ năm 1954 đến năm 1959, tại Phật học đường Nam Việt. Các Thầy ra trường cùng đồng khóa với Hòa Thượng Thích Thanh Từ, như quý Thầy Từ Thông, Thầy Huyền Vi và quý Thầy Thiền Định…

Trải qua lớp Sơ đẳng, lớp Trung đẳng, và Cao đẳng Phật học, sau gần 10 năm, đoạn đường Tăng sinh của Thầy Thích Thanh Từ, kể như là đã hoàn tất. Thầy bắt đầu bước sang thời kỳ giáo hóa và giảng đạo. Thầy Thích Thanh Từ là một vị Giảng Sư, rất có uy tín lúc bấy giờ, trong Giảng Sư đoàn của ban Hoằng Pháp, và được đông đảo Phật tử xa gần kính trọng và quý mến.

Tiểu sử Hòa Thượng Thích Thanh Từ là ai? Quê Thầy ở đâu?

Đại Lão – Thiền Sư – Hòa Thượng Thích Thanh Từ, có tên tục là Trần Hữu Phước, tên Pháp Danh là Thích Thanh Từ, sau này Thầy đổi lại tên húy là Trần Thanh Từ. Thầy sinh vào ngày hai tư tháng bảy năm 1924, tại quê hương, Ấp Tích Khánh, Xã Thiện Mỹ, Huyện Trà Ôn, Tỉnh Cần Thơ xưa, nay thuộc Tỉnh Vĩnh Long. Thân Phụ của Thầy là ông Trần Văn Mão, Thân Mẫu là bà Nguyễn Thị Đủ, Thầy sinh ra và lớn lên tại quê hương Vĩnh Long, Việt Nam. Thân phụ của Thầy, theo nghiệp Nho từ khi còn nhỏ, giữ nếp sống giản dị, thanh cao, ông là một tín đồ của đạo Cao Ðài. Mẫu Thân của Thầy là bà Nguyễn Thị Ðủ, quê quán ở Làng Thiện Mỹ, Quận Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long. Bà Nguyễn Thị Ðủ là một người chân chất hiền lành, làm ăn tần tảo, sớm tối tận tụy, hy sinh cả đời vì chồng vì con.

Thiền Sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ, tuy là Thầy sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn cơ hàn, thế nhưng Thầy đã vượt lên chính mình, với những tố chất nổi bật riêng ngay từ khi còn thơ ấu, Thầy thích đọc sách, có chí xuất trần, trầm tính và ít nói, đặc biệt là Thầy hết lòng hiếu thảo với Phụ Mẫu, và thường xuyên đi làm việc thiện.

Năm Thầy lên 9-10 tuổi, Phụ Thân cho Thầy đi cùng lên Mốp Văn, Long Xuyên để thọ tang một người bác thứ 3 trong gia đình, Thầy Thích Thanh Từ lần đầu tiên được theo Cha đến thăm Chùa Sân Tiên, ở tận trên núi Ba Thê, để làm lễ cầu siêu cho bác. Nghe tiếng chuông chùa ngân vang cô tịch, giữa khoảng thinh không, duyên xưa gặp lại, tự bao giờ, như có một nỗi niềm giao cảm, đã khiến Hòa Thượng rung động, người bất thần xuất khẩu thành thơ:

Non đỉnh là nơi thú lắm ai, Cảnh đó nhàn du của khách tài.

Tiếng mõ công phu nhân tỉnh giấc, Văng vẳng chuông hồi quá bi ai.

Chí xuất trần của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, có thể nói rằng, từ đây đã nổi dậy. Thầy theo dòng đời chìm nổi và nhất là trong cuộc sống thời loạn lạc, Hòa Thượng thêm đau xót và thấm thía những nỗi thống khổ tận cùng của con người. Vì thế chí xuất trần của Đại lão Hòa Thượng càng thêm mãnh liệt hơn. Tâm niệm của Thầy luôn ấp ủ là, nếu tôi không thể làm một viên đan dược thần kỳ, để cứu tất cả các căn bệnh cho chúng sinh, thì ít ra tôi cũng là một viên thuốc bổ, có thể giúp ích cho nhiều người bớt khổ. Hữu quả ắt hữu nhân, cánh cửa Thiền Môn đã hé mở, con đường sáng đã đón Thầy rẽ sang từ hôm đó.

Hòa Thượng đã đến Chùa Phật Quang, làm công quả được 3 tháng, vào đúng ngày rằm tháng 7 năm 1949, khi nghe tiếng mõ tiếng chuông thúc giục và Thiền môn đã mở cánh cửa đón chào, Thầy quỳ lạy xin phép Phụ Mẫu cho mình đi xuất gia. Được Cha Mẹ đồng ý, nên Thầy Thích Thanh Từ thấy trong lòng vui mừng hớn hở, Thầy quay trở lại Chùa Phật Quang chính thức xuống tóc xuất gia, và được Sư Tổ Thiện Hoa, ban cho Thầy pháp danh là Thanh Từ. Khi ước nguyện bấy lâu của Thầy đã thành hiện thực, từ đó, Thầy theo Tổ công phu bái sám siêng năng, vừa học giáo lý, vừa dạy các em nhỏ những bài giảng về Phật pháp. Ngoài ra, Thầy còn Phụ Sư Tổ trong chùa, chăm sóc, trông nom hàng chục chú tiểu. Tuy công việc khá nhiều, nhưng Thầy vẫn để tâm học những bộ Kinh Thư.

Tiểu sử Thầy Thích Pháp Hòa là ai?

Thầy Thích Pháp Hòa sinh năm 1974, sinh quán tại quê hương Cần Thơ. Thầy là con lớn trong gia đình, dưới Thầy là một người em trai. Năm Thầy Pháp Hòa lên 6 tuổi, Cha của Thầy đã xuất cảnh sang Canada. Sau đó, năm 1986 khi Thầy Pháp Hòa 12 tuổi, thì Mẹ, Thầy và em trai mới được Cha bảo lãnh sang Canada để cả gia đình đoàn tụ.

Ngay từ nhỏ, Thầy Pháp Hòa đã thể hiện là một người có căn duyên với Phật Pháp. Cụ thể là năm 2017 trong một buổi thuyết giảng có chủ đề “Bốn loại ngã chấp”, khi mở đầu buổi giảng Pháp, để nói về thiện căn Bồ Đề ở trong mỗi con người, Thầy đã chia sẻ câu chuyện từ hồi nhỏ của chính mình. Đó là, vào một ngày rằm tháng giêng năm Thầy mới 7 tuổi, Thầy được Thân Mẫu dẫn đi lễ chùa. Đây cũng là lần đầu tiên Thầy được đi lễ chùa sau rất nhiều lần Thầy năn nỉ Mẹ cho đi. Ngôi chùa hồi đó, nói đúng  ra là một ngôi Tịnh Xá nhỏ, có tên là Chùa Ngọc Thuận ở Cần Thơ. Tuổi còn nhỏ nên chưa hiểu chuyện nhưng sau một hồi quan sát, Thầy thấy rằng ai tới Chùa cũng được gọi bằng một cái tên Pháp Danh rất hay. Thấy vậy, Thầy Pháp Hòa mới tới gần một vị Sư Già tại Chùa và nói hồn nhiên rằng “Sư ơi Sư con cũng muốn có tên đẹp”. Thấy vậy, vị Sư Già cười và nói với Thầy rằng “Con hãy chắp tay quỳ xuống lạy Phật đi rồi Sư sẽ quy y cho”. Thầy Pháp Hòa đã làm theo nói và chắp tay quỳ xuống lạy Phật, chính thức ngày hôm đó Thầy được quy y Tam Bảo, và được Sư Già đặt Pháp Danh cho Thầy là Huệ Tài. Để nhận Pháp Danh, nhà Sư trụ trì đã ghi Pháp Danh đó lên một tờ giấy quy y nhỏ, trên tờ giấy có đề một bài thơ quy y, mà tới mãi sau này khi Thầy kể lại, Thầy Pháp Hòa vẫn đọc từng câu từng chữ rất rành rọt:

“Huệ Tài đáng khen trí minh quang, Giữ giới quy y đắc vẹn toàn. Ngũ giới cấm nhìn theo nẻo chính, Tam quy trao luyện hết mê tà. Trì trai niệm Phật chọn chuyên phúc, Tu hành bố thí khỏi đọa xa. Nay gặp đạo lành nhanh chở góp, Nương về tam bảo đúng nhà ta.”

Sau khi được Sư Già làm lễ quy y Tam Bảo xong, Thầy Pháp Hòa vẫn lém lỉnh thỉnh cầu với Sư Già thêm một tâm nguyện nữa, “Sư ơi, quy y Tam Bảo rồi, bây giờ con muốn thờ Phật. Con muốn thờ Phật Thích ca, thờ Phật Di lặc, thờ Phật A Di Đà, con muốn thờ Quán Thế Âm Bồ Tát”. Thấy cậu bé còn nhỏ nhưng lại rất có duyên với nhà Phật, nên về sau Sư Già cũng tìm đúng 4 bức hình Phật như cậu thỉnh cầu và căn dặn thêm, con đã thờ Phật thì phải phát nguyện ăn chay 10 ngày trong mỗi tháng. Thầy Pháp Hòa sau đó về đã thực hành đúng theo như lời Sư dạy, nhờ Thân Mẫu lập cho bàn thờ Phật ở tại gia để hàng đêm tập đọc kinh, cúng dàng.

Không chỉ thế, mà hàng tháng nhà Chùa sẽ tổ chức 4 ngày cúng hội thì Thầy Pháp Hòa đều rất nhớ để qua. Lần nào đến Chùa Thầy cũng sẽ tới lạy Phật Quán Thế Âm Bồ Tát trước tiên, rồi xin bao sái tượng Phật và cầu xin Phật gia hộ cho mình được tu tập thật giỏi. Nhờ thế, Thầy Pháp Hòa đã được các nhà Sư trong Chùa hết lòng quý mến, cho đọc sách, và dạy thêm cho nhiều nghi thức trong nhà Phật. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhờ chăm chỉ siêng năng học tập mà Thầy đã đọc thuộc lòng rất nhiều cuốn Kinh sách quý, như Nghi thức tụng niệm và Kinh A di đà…

Năm 1989, lúc này Thầy Pháp Hòa đã định cư bên Canada cùng Bố Mẹ được 3 năm. Tuy là sống ở nước ngoài nhưng thói quen đi lễ Chùa, đọc Kinh sách Phật, Thầy vẫn duy trì đều đặn. Nhờ vậy mà đến năm Thầy Pháp Hòa 15 tuổi, khi cửa Thiền đã kết đủ duyên lành, Thầy Pháp Hòa đã chính thức xuống tóc xuất gia, tu tập dưới sự dẫn dắt của Thượng Tọa Thích Thiện Tâm (hiện tại Thượng Tọa Thích Thiện Tâm là Hòa Thượng Viện Chủ Tu Viện Trúc Lâm và Tu Viện Tây Thiên ở Canada).

Năm 1994, khi đã tròn 20 tuổi, trong một sự kiện Đại Giới Đàn Hương Tích của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Tại làng Mai (Pháp), Thầy Thích Pháp Hòa chính thức được thọ ký Tỳ Kheo.

Năm 1999, Thầy Pháp Hòa rất vinh dự được Thiền Sư Thích Nhất Hạnh truyền Đăng với bài kệ pháp:

“Pháp đã trao tâm từ vàng thuở, Hào quang tiếp độ cả quầng sân. Sen nở rạng ngời tròn không nhiễm, Độ hết mười phương chốn hữu tình.”

Khả năng tự tu tập và trau dồi kiến thức rất tốt, kết hợp với tài năng đức độ của bản thân. Thầy Thích Pháp Hòa đã có rất nhiều bước tiến lớn trên con đường Phật sự. Tới năm 2006, Thầy Thích Pháp Hòa đã chính thức được tấn phong làm trụ trì tại Trúc Lâm Thiền Viện (Tu viện Trúc Lâm Canada). Qua một năm sau (2007), Thầy được giao thêm trọng trách trụ trì Tây Phương Thiền Viện, đồng thời Thầy được bầu làm Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Điều Tra Phật Học Edmonton tại (Canada).